Giao Chỉ là tên gọi của nước Việt Nam (cổ) đã có 4 lần nước Việt Nam đặt tên nước là Giao Chỉ, lần đầu tiên tên Giao Chỉ chính thức đại diện cho người Việt cổ (từ 111 TCN–40 CN)
Giao Chỉ (chữ Hán: 交趾) là địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Xích Quỷ đến các kỳ thời Bắc thuộc.
1. Từ thời Hoàng Đế, hơn 2000 năm trước thời Khổng tử, đã có địa danh Giao Chỉ.
Giao Chỉ không phải là một “nước”. Hoàng Đế (2697-2597 trước TL) lấy lĩnh thổ Giao Chỉ làm ranh giới phía Tây Nam của đất nước Hoàng Đế.
2. Từ thời Đế Nghiêu, khoảng 1800 năm trước thời Khổng tử, đã có danh hiệu Việt (người Việt Thường)
3. Từ đời nhà Chu (1046 – 256 trước TL), khoảng 500 năm trước thời Khổng tử:… … đời Chu Thành Vương (1042-1021 trước TL), phía Nam đất Giao Chỉ, có người Việt Thường đến giao hảo và hiến tặng chim Trĩ trắng … (ghi trong phần Đại truyện, Thượng Thư và trong Nam Man truyện, Hậu Hán Thư).
4. Giao Chỉ là một khái niệm nói về vùng đất giáp ranh phía Nam của lĩnh thổ Đường Nghiêu.
5. Giao Chỉ ở khoảng giữa Hoàng hà và Dương Tử giang – vào vùng đất Sở, gồm phần Bắc hai châu Kinh và châu Dương cổ xưa (có thể hiểu đấy là phần phía Bắc của nước Xích Quỷ cổ xưa) Như thế, vào thời thượng cổ, Giao Chỉ không thể là ở trong vùng đồng bằng sông Hồng.
Khoảng năm 221 trước TL: Nước Sở bị nước Tần thôn tính.
khi Triệu Đà sau khi thôn tính Âu Lạc đã chia Âu Lạc thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân.
Khi nhà Hán đô hộ Nam Việt vào năm 111 trước Công nguyên thì đất Nam Việt cũ bị chia thành 6 quận là Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ và Cửu Chân. Đứng đầu quận là thái thú. Quận Giao Chỉ (Giao Chỉ quận) nằm trong bộ Giao Chỉ (Giao Chỉ bộ). Đứng đầu bộ Giao Chỉ là một thứ sử. Thứ sử đầu tiên là Thạch Đái. Quận trị của quận Giao Chỉ có thể ban đầu đã đặt tại Mê Linh, sau này đặt tại Liên Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Khi Chu Xưởng làm thái thú quận Giao Chỉ đã dời quận trị đến Long Biên.
Bộ Giao Chỉ là một cấp hành chính của nhà Tây Hán, bao trùm toàn bộ lãnh thổ cũ của nước Nam Việt cộng thêm 3 quận mới lập là Châu Nhai, Đạm Nhĩ và Nhật Nam, được đặt chính thức vào năm 106 TCN, gồm 9 quận là: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (Nhật Nam được thành lập sau khi nhà Tây Hán chiếm được thêm vùng đất phía nam quận Cửu Chân), Đạm Nhĩ, Châu Nhai (Đạm Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm và Thương Ngô (nay thuộc Quảng Tây và Quảng Đông).
2879–2524 TCN | Xích Quỷ (truyền thuyết) |
Thế kỷ 7–258 TCN | Văn Lang |
258-179 TCN | Âu Lạc |
204–111 TCN | Nam Việt |
111 TCN–40 CN | Giao Chỉ |
40–43 | Lĩnh Nam |
43–203 | Giao Chỉ |
203–544 | Giao Châu |
544–602 | Vạn Xuân |
602–679 | Giao Châu |
679–757 | An Nam |
757–766 | Trấn Nam |
768–866 | An Nam |
866–967 | Tĩnh Hải quân |
968–1054 | Đại Cồ Việt |
1054–1400 | Đại Việt |
1400–1407 | Đại Ngu |
1407–1427 | Giao Chỉ |
1428–1804 | Đại Việt |
1804–1839 | Việt Nam |
1839–1945 | Đại Nam |
1887–1954 | Đông Dương (Bắc/Trung/Nam Kỳ) |
từ 1945 | Việt Nam |